Tổng quan Chủ_nghĩa_thần_bí

Trong văn học

Underhill (1875-1941) đã xuất bản cuốn chuyên đề của bà năm 1911 nhấn mạnh trọng tâm của huyền học là thói quen và từ những trải nghiệm của thói quen hay ‘luyện tập’ hơn là lý thuyết suông.[3] Otto (1869-1937) trong những bài giảng Haskell của ông tại trường Cao đẳng Orbelin năm 1924 đã trình bày quan điểm của ông về sự cộng hưởng và phân kỳ của các hình thức huyền học qua những cách gọi tên ở phương Đông hay phương Tây qua nghiên cứu các trường hợp cụ thể được giới thiệu bởi Adi Shankara (Công nguyên năm 788 – 820) đại diện cho phương Đông, và Eckhart (1260-1328) đại diện cho phương Tây. Bài giảng được mở rộng bởi Otto và ngay sau đó xuất bản luận án thạc sĩ ở Đức, được chuyển ngữ sang tiếng Anh bởi Bracy & Payne.[4]

Chi tiết

Huyền học là đức tin và thực nghiệm đi xa hơn những hình thức thờ phụngcầu nguyện của đức tin chính thống, thường bằng cách tìm ra ý nghĩa ẩn sâu hoặc bí truyền của các học thuyết tôn giáo thông thường, và bằng cách tham gia vào những hành vi tâm linh như hành thở, cầu nguyện, suy ngẫm và thiền định, cùng với tụng kinh và các hoạt động khác được thiết kế để nâng cao nhận thức về tinh thần. Ví dụ, Kabbalah (trong Do Thái giáo) tìm cách giải thích sâu hơn về kinh Torah và những công trình huyền bí khác, và có thể tiến hành dựa trên các hành vi tâm linh như thiền, pháp thuật hoặc giả kim thuật, cũng như ca hát, nhảy múa, cầu nguyện và nghiên cứu những văn bản cổ về luật và truyền thống Do Thái, cũng như được thực hiện trong nhiều truyền thống huyền bí khác. Sufi giáo (trong Hồi giáo) mở rộng và khuếch đại những lời dạy của kinh Qur'an dựa trên tinh thần tình yêu phổ quát, nổi tiếng nhất nhờ những nhạc sĩ sùng đạo nhảy điệu Zhikrs và hát Qawwalis. Vedanta tìm hiểu những giáo lý sâu xa của triết học Ấn Độ được gói gọn trong cuốn kinh Vệ đà, và rất nhiều môn sinh của cả hai trường phái Đát-đặc-la Shaivite và Shakta của Hindu giáo đều theo Vaisnaivas hướng chính tông sử dụng những biểu tượng và thần thoại của những nam thần và nữ thần của họ trang trí trong nhà để đạt được cảnh giới nhận thức cao nhất, thông qua những thực hành thần bí đã được ấn định và chứng minh cho những mục đích của họ. Huyền học cho rằng có sự tồn tại của một trạng thái cơ bản ẩn sâu dưới những hiện tượng thấy được xảy ra hằng ngày trên thế giới này, và trong thực tế thì thế giới bình thường là thấy được hoặc là siêu hiện tượng. Thường thì những người theo huyền học tập trung vào những lời giáo huấn của các cá nhân có sự thông suốt đặc biệt, và trong vài trường hợp thì hầu hết những người tin tưởng vào thuyết phi huyền học (chỉ hoàn toàn dựa trên những giáo lý căn bản) thường chỉ theo những vị giáo chủ hoặc sư phụ của họ mà không có ai hoặc rất ít người thực hiện những phương pháp huyền học.

Những đức tin khác nhau có những quan hệ khác nhau với các tư tưởng huyền bí. Ấn Độ giáo có nhiều giáo phái thần bí, một phần do sự phụ thuộc mang tính chất lịch sử vào các Guru (những bậc thầy của trí huệ). Huyền học của Phật giáo phần lớn là monastic, khi mà phần lớn Phật tử cho rằng jhana (thiền) là một phương pháp vượt trội được sử dụng chỉ sau khi đã trải qua nhiều kiếp sống.[5] Huyền học trong những tôn giáo gốc Abraham (Hồi giáo, Kitô giáo) thường bị cách ly, từ việc những người Hồi giáo chính thống đã khoan dung cho Sufi giáo cho tới những lo ngại về việc thờ cúng phổ biến trong những Kitô hữu phương Tây, hay những tín đồ Kabbalah của Do thái giáo là những ngoại lệ đáng chú ý. Huyền học thấu hiểu đại thể một số hình thức mang tính nội tại, khi mối quan tâm của họ là trực tiếp chứng ngộ và loại bỏ những quan ngại về kiếp sau, và điều này thường mâu thuẫn với những giáo lý mang tính truyền thống tôn giáo. Huyền học được giảng dạy và truyền tải trực tiếp từ đạo sư tới tín đồ, dù mối quan hệ giữa đạo sư và tín đồ rất khác nhau: một số nhóm yêu cầu tuân theo nghiêm ngặt chỉ dẫn của đạo sư, những nhóm khác thận trọng giảng dạy cho tới khi tín đồ thực sự đã sẵn sàng, trong một vài nhóm thì đạo sư chỉ thuần túy trợ giúp cho những tín đồ đang trong quá trình chứng ngộ.

Huyền học có thể sử dụng những văn bản tôn giáo kinh điển hoặc không kinh điển, và thường sẽ giảng giáo chúng như chú giải những văn bản cổ, phát triển một quan điểm triết học khác với cách hiểu truyền thống của tôn giáo. Nhiều hình thức huyền học hiện đại sẽ thích nghi hoặc chấp nhận những văn bản từ những tôn giáo hoàn toàn khác biệt—Vivekananda thuộc Vedanta, được chú ý bởi những khẳng định của ông cho rằng tất cả những tôn giáo đều là một.